Thứ Bảy, 26 tháng 10, 2013

Tu Học

HI NGH BI DƯỞNG HÀNH CHÁNH

                                                 GIA ĐÌNH PHT T TNH BÌNH ĐỊNH


                   Được sự chỉ đạo của Hòa Thượng trưởng ban Hướng Dẫn Phật tử, cùng sự nhất trí của Ban Trị Sự GHPG Việt Nam tỉnh Bình Định.
                  
                   Ban Hướng Dẫn Phân Ban GĐPT tỉnh Bình Định tổ chức HỘI NGHỊ PHỔ BIẾN CÁC VĂN KIỆN HÀNH CHÁNH GĐPT và TRIỂN KHAI NỘI QUY PHÂN BAN GĐPT – NỘI QUY HUYNH TRƯỞNG GĐPT. 

Địa điểm: Tại chùa Hiển Nam số 03 Trần Thị Kỷ - thành phố Quy Nhơn. 

Thành phần tham dự: - Thành viên BHD Phân ban GĐPT tỉnh Bình Định 
                                 - BĐH GĐPT các Huyện, Thị xã, Thành phố, H/Tr cấp Tấn – cấp Tín – cấp Tập - Gia trưởng – Liên Đoàn trưởng  - Liên Đoàn phó – Thư ký các đơn vị Gia đình trong toàn tỉnh.

          Thời gian 01 ngày, khai mạc lúc 08,00h ngày 26/10/2013 (22/9/Quý Tỵ)
Tát bạch
Cung thỉnh

Niệm Phật cầu gia bị

Lễ Gia đình
Mật niệm
Hòa Thượng trưởng ban HD Phật tử tỉnh, Cố vấn Hội nghị Ban đạo từ

Anh Phó trưởng ban kiêm chánh văn phòng, Phó ban tổ chức Hội nghị giảng bài Nguyên tắc tổ chức và điều hành một đơn vị GĐPT


Văn nghệ giải lao
Anh H/Tr cấp Tín Nguyên Bình Trần Văn Hùng giảng bài Tổ chức lễ lược trong GĐPT
 Cơm trưa

 Toàn khóa học chụp hình lưu niệm



 Giây thân ái



Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013

CM NANG
CA NGƯỜI PHT TỬ        (TT)
                                                                                          
                   Tác giả KHẢI THIÊN
                   ( Tức Thầy Thích Tâm Thiện )
                                                                            
                   Sinh năm:  1970
                   Xuất gia năm 1976
                   Thọ giới Tỳ Kheo năm 1990
                   Tốt nghiệp Tiến sĩ ngành Tôn giáo học tại Mỹ năm 2008; 
                                              
Ảnh Tác giả           
                                                                                

6/  Vậy Phật giáo là tôn giáo hay triết học?
           
            Câu hỏi rất bao quát. Vì lẽ, trên thế giới có nhiều tôn giáo và nhiều quan niệm về Thượng Đế, và mỗi tôn giáo đều có chủ trương và học thuyết khác nhau. Tuy nhiên, có thể khái quát hóa các nhóm tôn giáo thế giới theo hai đặc tính căn bản đó là:
            a/ Tôn giáo tin rằng có sự hiện hữu của một ( độc thần giáo) hoặc nhiều (đa thần giáo) vị thần linh như Đấng Sáng Thế, Thượng Đế, hay Phạm Thiên v.v…Sáng tạo và làm chủ đời sống của con người và vạn vật.
            b/ Tôn giáo không tin rằng các vị thần linh sáng tạo, làm chủ và ngự trị cuộc sống của con người và vạn vật. Trong giới hạn của phân định này, thì Phật giáo là một tôn giáo không có mặt của Thượng Đế hữu ngã và độc tôn, nhưng có đầy đủ các chức năng của một tôn giáo- theo cách hiểu của ngành tôn giáo học hiện đại,- bao gồm: Các lĩnh vực khái niệm như ngôn ngữ, Kinh điển, biểu tượng; Các hình thức như nghi lễ, hành trì, tu tập; và các mối liên hệ chặt chẽ với xã hội. Mặt dù vậy, không ít người, xưa và nay, vẫn xem Phật giáo như một “ triết lý sống”, hay một “ triết lý của sự giác ngộ”;  và tất nhiên điều đó là hoàn toàn hợp lý cho mỗi cá nhân.

7/  Triết lý căn bản của Phật giáo là gì?  
            Triết lý căn bản của Phật giáo được Đức Phật giảng dạy trong pháp thoại đầu tiên của Ngài tại vườn Nai (Lộc Uyển) đó là bài pháp về Bốn Chân Lý ( Tứ Thánh Đế): Khổ đau, nguyên nhân của khổ đau, sự chấm dứt của khổ đau, và con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau. Pháp thoại tiếp theo bài giảng đầu tiên này, Đức Phật dạy về Vô Ngã, tức là không có một ngã tính thường hằng bất biến trong sự hiện hữu của hợp thể năm uẩn ( sắc, thọ, tưởng, hành và thức): Hay nói khác đi, cả thế giới của tâm lý và vật lý đều không có ngã tính thường tại, vĩnh hằng. Tuy nhiên chúng ta cũng nên nhớ rằng trên con đường đi đến giác ngộ, Đức Phật đã thiền quán sâu xa về chân lý Duyên Khởi; và chính trong dòng thiền quán này, Ngài đã giác ngộ toàn triệt và trở thành một vị Phật sau khi chặt đứt vòng nhân duyên khổ đau. Do đó, có thể nói triết lý căn bản của Phật giáo được gói trọn trong các giáo lý: Bốn Chân Lý, Duyên Khởi, và Vô Ngã.

8/  Nếu Phật giáo không phải là một tôn giáo thần quyền, vậy có thể xem Phật giáo là một tôn giáo khoa học hay một triết lý khoa học?

            Gọi như thế nào là tùy sở thích. Nhưng nên nhớ rằng, Phật giáo từ khởi thủy không có mục đích lý giải hay chứng minh các vấn đề thuộc khoa học như các ngành khoa học hiện đại. Phật giáo không đặt vấn đề nghiên cứu khoa học lên hàng đầu, cũng không xu thế theo các lý giải của khoa học, dù rằng những điều do Đức Phật giảng dạy bao giờ cũng rất khoa học. Và sự thật là, khi khoa học càng phát triển, thì những tiến bộ của khoa học đã giúp ích rất nhiều trong việc giải minh các chủ đề tinh tế trong giáo lý của đạo Phật, nhất là trong các lĩnh vực thuộc tâm – vật lý học. có lẽ, đây là lý do mà ngày nay Phật giáo được phát triển nhanh chóng trong các nước tiên tiến, đặc biệt là các trường đại học tại châu Âu và Bắc Mỹ. Vấn đề cốt tủy của Phật giáo, như được trình bày trong Bốn Chân Lý, là nhận diện nguyên nhân của khổ đau để chuyển hóa khổ đau thành an lạc, giải thoát. Trên thực tế, Phật giáo thường được gọi là tôn giáo của trí tuệ, như phương châm “ Duy Tuệ Thị Nghiệp” ( Lấy trí tuệ làm sự nghiệp ). Mặc dù vậy, Phật giáo chủ trương trí tuệ và tâm đại  bi phải luôn đi đôi với nhau. Do đó, nói cho đầy đủ, sự nghiệp của một vị Phật hay một vị Bồ Tát bao giờ cũng là trí tuệ và tâm đại bi.

9/  Nếu ngay từ đầu đạo Phật đã thiết lập một con đường cho sự giác ngộ và giải thoát, vậy tại sao lại có khái niệm Tiểu thừa và Đại thừa?
            Có ba giai đoạn trong lịch sử Phật giáo: Nguyên Thủy, Tiểu thừa và Đại thừa. Nguyên thủy được tính khi Đức Phật còn tại thế đến sau khi Ngài diệt độ khoảng 100 năm. Và tiếp theo đó là sự phát triển các hệ thống tư tưởng của Tiểu thừa và Đại thừa. Nói chung khái niệm Tiểu thừa ( Chiếc xe nhỏ) và Đại thừa ( chiếc xe lớn) được hình thành trong qua trình phát triển lịch sử tư tưởng và triết học Phật giáo. Sự phát triển của hai truyền thống chính này được mở rộng thành 18 bộ phái theo lịch sử Phật giáo, tuy nhiên cả hai truyền thống này đều dựa trên các giáo lý căn bản như Bốn Chân Lý, Duyên Khởi và Vô Ngã. Mặt dù vậy, cả hai truyền thống này đều có những quan niệm và giải thích khác nhau về phương diện tu tập bản thân và các mối liên hệ xã hội. Lịch sử cho chúng ta biết rằng, khi xã hội ngày càng phát triển, thì ngôn ngữ, tư tưởng và cuộc sống thực tế cũng phát triển; Đấy là lý do căn bản của sự phát sinh những kiến giải và quan niệm khác nhau của người đệ tử Phật. Nhất là, khi Đức Phật đã diệt độ hàng trăm năm và những lời dạy chân chất của Ngài, theo thời gian, đã bị bao phủ lên một lớp áo luận lý theo cách tân của xã hội. Ngày nay, người học Phật thường dùng khái niệm Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Phát triển để nói đến những khác biệc trong các hình thức Phật giáo.

10/  Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Phát triển khác nhau như thế nào?       

            Có thể tóm tắt một số khác biệt căn bản như sau:
            a/ Về ngôn ngữ, Phật giáo Nguyên thủy dùng kinh tạng Pali (Nam Phạn) gồm các kinh Nikaya làm nền tảng tu tập; Trong khi đó, Phật giáo Phát triển sử dụng các khinh Đại thừa thuộc ngữ hệ Sanskrit ( Bắc Phạn), Hán ngữ, và Tây Tạng ngữ ( Luận tạng) làm nền tảng.
            b/ Về tư tưởng, Phật giáo Nguyên thủy lấy giáo lý Duyên Khởi làm trọng tâm; trong khi Phật giáo Phát triển hình thành thêm hệ tư tưởng Trung quán và Duy thức trên nền tảng của Duyên Khởi; và sau cùng là sự ra đời của Kim Cang thừa, và còn gọi là Mật Tông, Mặt dù vậy, tất cả hệ tư tưởng trên không hề mâu thuẫn nhau.
            c/ Về Pháp môn tu tập, Phật giáo Nguyên thủy chuyên chú hành trì thiền định với các đề mục căn bản là Bốn Niệm Xứ ( Thân, Thọ, Tâm, Pháp); trong khi Phật giáo Phát triển mở rộng các hình thức tu tập theo nhiều tông phái bao gồm Thiền, Tịnh độ và Mật thừa. Mỗi tông phái lại có nhiều pháp môn ứng dụng khác nhau.

Phật giáo Nguyên thủy
Phật giáo Phát triển
Kinh tạng Pali / Nikaya
Kinh tạng Đại thừa
Gồm Sanskrit, Hàn ngữ, và Tây tạng ngữ
Duyên Khởi
Trung Quán – Duy Thức – Kim Cang thừa
Thiền Nguyên thủy
Thiền ( nhiều tông phái )
Tịnh độ - Mật thừa

11/  Ngoài Phật giáo Nguyên thủy và Phát triển, sao còn gọi là Nam tông và Bắc tông?

            Nam tông hay Bắc tông là tên gọi khác của Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Phát triển. Tuy nhiên, điểm đặc biệt của cách gọi này nhằm chỉ vào phương sở truyền bá của hai truyền thống Phật giáo. Phật giáo Nam tông, tức là hệ Nguyên thủy, được truyền bá sâu rộng sang các nước phía Nam của Ấn Độ như Sri lanka, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia…, Trong khi Phật giáo Bắc tông, tức là hệ Phát triển, lại được truyền bá sâu rộng sang các Quốc gia và vùng lãnh thổ ở hướng Bắc của Ấn Độ gồm Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mông cổ, Tây Tạng (TQ), Việt Nam…

12/  Về hình thức sinh hoạt, Nam tông và Bắc tông khác nhau như thế nào?

            Về hình thức, Nam tông vẫn duy trì hình thức sinh hoạt căn bản theo đúng truyền thống ngay từ thời Đức Phật. Chư Tăng Nam tông vận y phục màu vàng, ăn ngày một bữa, tụng kinh bằng ngôn ngữ Pali v.v. Tuy nhiên, điểm đặc sắc của các nước Phật giáo Nam tông là Tăng sĩ vận y phục giống nhau và tụng kinh giống nhau ( kinh tạng Pali ) nên chư tăng ở các nước khác nhau vẫn có thể tụng kinh chung một cách hòa quyện.
            Ngược lại Bắc tông không duy trì hình thức sinh hoạt nguyên thủy. Các nước Phật giáo Bắc tông tự điều chỉnh cách thức sinh hoạt căn bản trong đời sống tu tập hằng ngày và dựa vào phong tục, tập          quán, và văn hóa truyền thống, và nhu cầu xã hội của mỗi nước. Do đó, cách thức sinh hoạt của Tăng Ni theo Bắc tông không đồng nhất với nhau, tùy mỗi nước, mỗi ngôn ngữ, và mỗi truyền thống văn hóa bản địa. Tăng Ni theo Bắc tông, chẳng hạn, vận y phục có nhiều màu sắc và nhiều kiểu khác nhau, kinh điển thọ trì hằng ngày được chuyển dịch sang ngôn ngữ địa phương, ăn uống tùy theo sức khỏe, có thể ăn nhiều bữa trong ngày. Nói chung, Bắc tông vốn là mô thức Phật giáo Phát triển, do vậy vấn đề thích ứng với xã hội trở thành yếu tố hàng đầu trong việc truyền bá  Phật giáo.

13/ Vậy, có sự khác biệt nào trong tiến trình giác ngộ giữa Nam tông và Bắc tông 
                                                                                                                                        (còn nữa)

Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2013

CM NANG
CA NGƯỜI PHT TỬ  

Bạn thân mến !

            Tôi và bạn là những Phật tử sơ phát tâm và bước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật, nhưng tôi có được duyên lành được đọc qua quyển CẨM NANG CỦA NGƯỜI PHẬT TỬdưới hình thức vấn đáp tôi thấy rất cần cho những người mới học Phật như chúng ta trong bối cảnh đa văn hóa và nhiều truyền thống tôn giáo. Do vậy tôi lần lược ghi lại đây các chủ đề mà tập sách nầy đã giới thiệu mang tính cách căn bản nhằm giúp cho người Phật tử như chúng ta có một cái nhìn tổng quát về lời dạy của Đức Phật trên cả hai phương diện lý thuyết và thực hành .
           
            Mong bạn cũng có cùng suy nghĩ như tôi.

                 Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.

1/ Phật giáo  và các tôn giáo khác giống nhau ở điểm nào?

            Phật giáo và các tôn giáo khác đều khuyến khích con người làm các việc lành, tránh xa những điều xấu ác, xây dựng đời sống đạo đức, biết yêu thương và phát triển các giá trị nhân phẩm cho chính tự thân và tha nhân, cho gia đình và xã hội.

2/ Phật giáo khác các tôn giáo ở điểm nào?

            Phật giáo khác các tôn giáo khác ở chổ: Phật giáo không thừa nhận có một Thượng Đế sáng tạo, ngự trị và chi phối đời sống của con người. Khổ đau hay hạnh phúc là do mỗi con người tự tác thành cộng với sự chi phối của dòng NGHIỆP LỰC cũng do chính mỗi con người tạo ra. Đức Phật dạy: “ Con người trở nên cao quý hay đê hèn không phải do nguồn gốc sinh thành từ gia đình hay đẳng cấp xã hội mà trái lại do chính hành động của tự thân làm cho con người trở nên cao quý hay đê hèn.” Thêm vào đó, điểm khác biệt căn bản trong hệ thống triết lý của Phật giáo và các tôn giáo khác là: Phật giáo cho rằng tất cả pháp ( những gì có mặt trên cuộc đời, bao gồm cả tâm và vật ) trên thế gian này đều là duyên sinh, có điều kiện; và do đó, tất cả pháp là vô ngã, không hề có một thực thể nào bất biến, vĩnh hằng, cũng không có ai làm chủ đời sống của con người, ngoại trừ con người cá thể. Điều quan trọng nổi bật trong giáo lý của Đạo Phật là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, và đều có khả năng thành Phật. Sự giác ngộ, giải thoát tối thượng là chân lý bình đẳng đối với tất cả chúng hữu tình mà không phải là một ân sủng đặc biệt dành riêng cho ai. Đây là quan điểm bình đẳng vĩ đại, khó có thể tìm thấy ở những tôn giáo Thần quyền khác.

3/ Tóm tắt lịch sử của Đức Phật?

            Đạo Phật do Đức Thích Ca Mâu Ni sáng lập tại Ấn Độ cách đây hơn 2550 năm. Các nhà sử học hiện đại cho rằng Đức Phật đản sanh vào ngày trăng tròn tháng Vasak vào khoảng năm 625 trước Tây lịch tại vườn Lumbini (Lâm - Tỳ - Ni ). Ngài vốn là một Hoàng tử, tên Siddhartha ( Tất – Đạt – Đa), Con tai duy nhất của vua Suddhodana ( Tịnh Phạn ) và Hoành hậu Mahamaya ( Ma – Da ). Khi lớn lên, Ngài đã đính hôn với Công chúa Yasodhara ( Da – Du – Đà – La ) và hạ sanh một nam tử tên là Rahula ( La-Hầu-La ). Sau khi nhận thấy rõ chân tướng khổ đau của kiếp người sinh lão bệnh tử, Ngài đã quyết tâm vượt cung thành để tìm chân lý. Trải qua năm năm tìm thầy học đạo, sáu năm khổ hạnh trong rừng già, sau cùng Ngài đã thành đạo dưới cội Bồ đề sau bốn mươi chín ngày thiền định. Kể từ đó Ngài được gọi là Phât- con người đã giác ngộ, đã giải thoát vòng sinh tử luân hồi. Sau khi giác ngộ Ngài đã khởi sự truyền bá Chánh Pháp- giáo lý đưa đến sự giác ngộ, giải thoát – và xây dựng giáo đoàn Tăng- Già trong suốt bốn mươi chín năm. Ngài đã nhập Niết-bàn vào năm tám mươi tuổi dưới tang cây Sala tại Kusinava, vào khoản năm 543 trước Tây lịch.

4/ Yếu tính của đạo Phật?

            Theo truyền thống, đạo Phật được định nghĩa như sau: Đạo là con đường;  Phật là sự giác ngộ, giải thoát tối hậu. Do vậy, yếu tính của đạo Phật, như chính tên gọi bày tỏ, là con đường đưa đến sự giác ngộ, giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi.

5/  Vậy phải chăng đạo Phật chủ trương lìa bỏ thế gian?

            Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni là người đã đạt được giác ngộ, giải thoát tối thượng, tức là Ngài đã thực thụ giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi ở độ tuổi trung niên. Thế nhưng Ngài vẫn ở lại thế gian thêm hơn bốn mươi năm nữa để truyền bá Chánh Pháp nhằm đem lại lợi ích cho thế gian.
            Ở đây có hai điểm mà bạn và tôi cần hiểu rõ:                                                        
           
            a/ Khái niệm giác ngộ: Trong đạo Phật được hiểu là sự tỉnh thức toàn diện về dòng vận hành của Duyên Khởi trong đời sống con người, bao gồm cả tâm lý và vật lý. Do năng lực tỉnh thức toàn diện này mà chúng ta có thể vượt qua các phiền não, nhiễm ô và kiến lập đời sống an lạc, hạnh phúc cho chính mình. Vả lại, năng lực tỉnh thức được chia thành nhiều cấp độ khác nhau từ thấp đến cao. Nên nhớ rằng một đời tu tập chưa hẳn đã tạo được cho mình một năng lực tỉnh thức toàn diện ( giác ngộ chân lý tuyệt đối ), vì nó còn tùy thuộc vào dòng nghiệp lực nhiều đời của mỗi cá thể.

            b/ Khái niệm giải thoát (moksha-vượt lên trên hay vượt ra khỏi ): Trong đạo Phật cũng vậy, nó bao hàm nhiều cấp độ khác nhau, từ việc nhỏ đến việc lớn. Khi nào chúng ta vượt ra khỏi những ràng buộc của các phiền não như tham lam, sân hận, si mê, chấp thủ… trong đời sống của chính mình thì khi đó mình được giải thoát. Cho đến khi nào tâm thức của mình hoàn toàn không bị chi phối bởi các phiền não đó thì mình sẽ thực sự hưởng thụ hương vị giải thoát. Thế nhưng, để đạt được sự giải thoát tối hậu đòi hỏi mình phải bứng tận gốc rễ của các phiền não trong tâm thức của mình một cách toàn triệt, vì chính các phiền não nhiễm ô là cái nhân của sinh tử luân hồi. Do vậy, nói khác đi, giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi chính là giải thoát các phiền não nhiễm ô trong đời sống của chính mình, và đấy là khái niệm “ xuất thế” của đạo Phật. Nên nhớ rằng, để đạt được giải thoát mình không cần phải đi đâu hết mà trái lại mình cần phải tu tập ngay bây giờ và ở đây, ngay nơi con người này và tại thế giới này.

                                                                                                                   ( còn nữa )